Bà Hồng nói: “Tôi gặp bà, một người phụ nữ. Mặc dù bà đến từ một đất nước xa xôi, nhưng xin thứ lỗi, bà cũng có chung nỗi khổ như chúng tôi. Cả hai chúng ta đều là phụ nữ nên chúng ta rất dễ thông cảm và chuyện trò cởi mở với nhau. Tôi muốn diễn tả và chia sẻ những cay đắng, ngọt bùi mà chúng tôi đã phải trải qua trong quá khứ. Có điều cay đắng… thí dụ như những cực khổ. Đó là cách mà chúng tôi thống nhất đất nước, dành được một tương lai ngọt ngào hơn… có thể đứng lên làm chủ mảnh đất của mình. Một đất nước có những người phụ nữ dũng cảm, không biết run sợ, không chỉ là những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Và những người chân yếu tay mềm đó cũng phải chiến đấu, phải đứng vững, tiến lên sát cánh cùng với những người đàn ông”.
Hỏi: “Bà có nghĩ đó là một câu chuyện cần phải kể cho tất cả mọi người cùng biết hay nên quên đi?”
Bà Hồng: “Bà phải kể về nó, phải đưa nó vào những trang sử. Nó cần được đưa vào những trang sử của đất nước chúng tôi, của thế hệ chúng tôi, của thế giới, để mọi người hiểu rằng đất nước Việt Nam có những người con trai, con gái, thanh niên cũng như phụ lão, tất cả đã trải qua một cuộc sống như vậy. Trước kia là thế [như tôi đã kể với bà], và nay là những cuộc đời chiến đấu như thế này đây. Hãy để cho mọi người thấy rõ tất cả sự thật”.
Tự sự về nỗi đau, sống còn và trách nhiệm – Kỳ 1
Những gì Bà Hồng muốn đưa vào những trang sử là những câu chuyện mà bà đã kể cho tôi nghe về chiến tranh, về những căn bệnh của bà, về những điều bà đã trải nghiệm và “rất, rất nhiều điều” bà cần phải nói. Cuộc phỏng vấn được trích ra trong bài này chỉ là một mảnh của những câu chuyện mà bà Hồng nhớ và muốn kể, một mảnh bị hạn chế bởi thời gian, địa điểm, tập quán, trí nhớ, ngôn ngữ và cả những mục đích tưởng tượng ra cho cuộc gặp của chúng tôi, lịch sử có liên quan đến nhau của hai quốc gia [Mỹ và Việt Nam], cũng như những giả định của những người hội thoại về nhau, và mức độ mà mỗi chúng tôi sẵn lòng xem xét lại những giả định của mình. Mục đích của bài viết này nhằm diễn giải một cách trung thực nhất, với ý thức về việc không tránh khỏi nhiều lớp lang trong sự diễn giải, về những gì bà Hồng kể và muốn truyền tải trong bối cảnh chủ đề hội thoại của chúng tôi: Chất độc da cam[1].
Góp phần vào cuộc trò chuyện về chất độc màu da cam như là một vấn đề khoa học cần được giải quyết, là một con bài chính trị dùng để mặc cả với nhau, một vấn đề nhân đạo cần được đề cập đến, một biểu trưng cho những việc làm của chủ nghĩa đế quốc và là mặt tối của xã hội hiện đại, điều tôi thuật lại sau đây là những câu chuyện về những con người ở miền Nam, miền Trung, miền Bắc Việt Nam, những con người mà chất độc màu da cam luôn là những lời giải thích khó hiểu về những nỗi thống khổ sau chiến tranh mà họ phải chịu đựng. Bao nhiêu câu chuyện và những mảnh đời: những câu chuyện về tình cảnh khốn khó và dị tật, những câu chuyện về kiếm thầy tìm thuốc, về gia cảnh eo nghèo, về sự đùm bọc của xã hội, cảnh tình tìm con đường sống, về việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, về tình trạng bị nhiễm các hóa chất độc, về những lời kêu gọi tới nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ, về nỗi căm giận và những giọt nước mắt, về sự câm lặng và cam chịu, và đôi khi có tiếng cười và những câu chuyện vượt lên nỗi đau.
Trong năm 2002 và 2001, nhờ có sự giúp đỡ của Ủy ban Chăm sóc và Bảo vệ Trẻ em và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam và Quốc tế, tôi đã phỏng vấn 38 gia đình Việt Nam sống ở miền Nam, miền Trung và miền Bắc Việt Nam được Hội Chữ thập đỏ cho là những “người nghèo khuyết tật trong đó có cả những người nghi là bị nhiễm chất độc màu da cam”. Tôi chọn câu chuyện với bà Hồng để mở đầu cho bài viết này một phần vì bà đã nêu ra rất nhiều vấn đề về sức khỏe và hậu quả xã hội của chiến tranh, nhưng cũng một phần vì bà đã tha thiết đề nghị tôi viết về những gì người phụ nữ Việt Nam phải trải qua để làm chứng cứ lịch sử cho đời sau. Trong khi nhiều gia đình muốn tôi đem chuyện của họ kể cho nhiều người khác trên thế giới, đặc biệt là Mỹ, bà Hồng là người duy nhất đề nghị tôi ghi lại những chuyện bà đã trải qua vào lịch sử, vào những lịch sử khác nhau: của Việt Nam, của thế hệ chúng ta, của thế giới này, của những đắng cay và ngọt bùi trong quá khứ, của thống nhất đất nước và độc lập dân tộc của Việt Nam, của sự bất khuất kiên cường của người phụ nữ, của cuộc vật lộn mưu sinh sau chiến tranh. Những gì tôi viết ra đây đụng chạm tới tất cả những điều này nhưng tôi vẫn muốn chỉ bó hẹp và tập trung vào bối cảnh viết lại câu chuyện của bà Hồng thành một phần của lịch sử về tác hại của chất độc màu da cam, cái chủ đề đã đưa chúng tôi đến với nhau. Tuy tôi đã cố thu hẹp chủ đề, nhưng những cân nhắc để mang lại sự công bằng cho những gì đã xảy ra thôi thúc tôi mở rộng mục đích của bài viết này để phản ánh trung thực hơn những trải nghiệm của bà Hồng, một sự vật lộn căng thẳng trong cái lùng nhùng của thuật ngữ “chất độc màu da cam”, một thuật ngữ dùng để nói về những hóa chất có dioxin dùng trong chiến tranh, và theo nghĩa bóng, về những hậu quả của chiến tranh đến môi trường và sức khoẻ con người[2].
Helle Rydstrom có thảo luận lý thuyết sâu sắc về ký ức, sự chấn thương, sự tương quan giữa những câu chuyện kể chính thống về quá khứ và hồi ức cá nhân trong bài “Nhân học về chiến tranh và bạo lực: Những hy sinh và chịu đựng từ góc độ giới ở miền Bắc Việt Nam” (bài cũng được thảo luận tại Hội thảo Nhân học quốc tế ở Bình Châu). Mặc dù tôi chưa phân tích dữ liệu của mình từ góc độ giới như Rydstrom đã tìm hiểu, và mặc dù bà Hồng vừa khẳng định vừa phủ nhận tầm quan trọng của yếu tố giới trong câu chuyện những khổ đau thời chiến tranh, tôi thấy rất hữu ích luận điểm của Rydstrom cho là tự sự không phải hoàn toàn được sắp đặt nhưng cũng không hoàn toàn là tự phát mà là những hồi ức những thời điểm then chốt ở giữa quá khứ và hiện tại, ở giữa cái chung và cái riêng[3].
Tôi muốn thêm vào thảo luận của Rydstrom về ký ức và tự sự một lập luận của tôi là việc quan tâm đến tự sự – tự sự với những ngập ngừng, những mâu thuẫn nội tại, những hiểu lầm, những thương thảo về ý nghĩa – có thể giúp chúng ta hiểu thêm yếu tố con người hay chữ nhân trong nhân học qua việc làm cho chúng ta thấy rõ tiến trình hội thoại về một thực tại phức tạp. Thực tại này một mặt trả lời cho những câu hỏi lý thuyết của nhà nhân học, nhưng mặt khác cũng đi xa hơn và mở rộng những câu hỏi lý thuyết này. Quan tâm về những phức tạp trong những trao đổi trong những tự sự dài giúp cho nhà nhân học quan tâm đến “câu chuyện của người khác cũng gần như câu chuyện mà nhà nhân học tự trình bày trong phân tích của mình” (Rosaldo 1989: 147), giúp cho nhân học thêm phong phú và tránh việc làm cho đối tượng nghiên cứu xuất hiện như những chủ thể thụ động[4].
[1] Câu chuyện được kể lại ở đây đã được đăng dưới tiêu đề “Trò chuyện với phụ nữ Việt Nam về Hậu quả của chiến tranh: Viết chống lại Sự im lặng và Quên lãng.” Bousquet và Taylor, eds. Le Viet Nam au Feminin.
[2] Tuy là có những khác biệt giữa các phân tích về sự huỷ hoại môi trường nhưng người ta thường đưa ra con số khoảng 2 triệu ha bị khai quang, và thêm khoảng 200.000 ha đất trồng trọt bị phá huỷ. Ban các học giả về châu Á quan tâm [về tình hình ở Á châu] trích dẫn thống kê của không quân Hoa Kỳ cho biết là đến năm 1969 thì 10% tất cả đất trồng trọt được đã bị phun chất khai quang. Những thống kê khác nhau báo cáo là từ 33% đến gần 50% tất cả rừng núi ở vùng cao đã bị phun chất khai quang ít nhất là hai lần. Thống kê của không quân Mỹ ghi lại là 36% những rừng chàm ngập mặn đã bị huỷ hoại (xem Buckingham 1982, Cecil 1986, Harnly 1988, Lewy 1978, Stellman 3003, Võ Quý 1992, Westing 1984, Young 1988.)
Thống kê về hậu quả về mặt sức khoẻ của con người thì khó tìm hơn, vì liên quan đến những con số về những người đã mất, những người vẫn còn được sinh ra, một số bệnh tật không hiện ra ngay, sự di chuyển của những người bị ảnh hưởng của việc phun thuốc khai quang, sự lan truyền của hóa chất vào nước, vào đất, vào những thực phẩm của súc vật và con người, và việc các nhà nghiên cứu chưa thống nhất được là bệnh tật nào có liên quan đến những hóa chất đươc sử dụng và dioxin. Tuy nhiên, bằng chứng tích tụ ngày càng nhiều từ những nghiên cứu về dioxin và hàng trăm nghiên cứu với cựu chiến binh Mỹ và những nhóm người khác: hiện nay, Viện Sức khoẻ Quốc gia Mỹ cho biết là có 10 loại bệnh hoặc 10 nhóm bệnh, và 2 dị tật bẩm sinh có thể có liên quan đến hóa chất được sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam: mụn nhọt ở mặt do clo, bệnh Hodgkins, bệnh đa u tuỷ, lymphoma không Hodgkins, bệnh sạm da (porphyria cuanea tarda), ung thư tiền liệt tuyến, ung thư đường hô hấp, bệnh tiểu đường loại 2, nứt đốt sống gây thóat vị não tuỷ (spina bifida), bệnh thần kinh ngoại vị cấp tính và dưới cấp tính (acute & subacute peripheral neuropathy), sarcoma cơ trơn (soft-tissue sarcomas), và trong trường hợp con cái của những nữ cựu chiến binh, một số dị tật bẩm sinh khác.
Giám đốc bộ phận nhiễm độc của Tổng cục bảo vệ môi trường cho biết là TCDD, một loại dioxin được sản xuất không có chủ ý như là một phụ phẩm trong tiến trình sản xuất chất Da cam và một số hóa chất khác được sử dụng trong chiến tranh, đã có những hậu quả sau đây đến con người: bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh ung thư, bệnh sạm da (porphyria), bệnh ni mạc tử cung nằm ngoài tử cung (endometriosis), testosterone bị giảm, mụn nhọt ở mặt do clo; ảnh hưởng đến sự phát triển của tuyến giáp (thyroid), khả năng miễn nhiễm bệnh, hành vi liên quan đến thần kinh (neurobehavior), tri nhận, răng; và tỷ lệ nam nữ của trẻ sơ sinh bị thay đổi”. (Birnbaum 2002)
[3] Tác giả muốn nói là những hồi ức này chịu ảnh hưởng của hiện tại cũng như của xã hội (LVH-người hiệu đính).
[4] Về việc kiến tạo ý nghĩa qua hội thoại, xem V. N. Volosinov 1973. [Hội thoại ở đây không nhất thiết là một cuộc trao đổi trực tiếp giữa nhiều người, mà có thể là tiếng nói ngầm ẩn của người khác mà một người xem xét đến [LVH-người hiệu đính]].
Diane Niblack Fox
Người dịch: Trần Thị Thu Hằng
Người hiệu đính: Trương Huyền Chi và Lương Văn Hy