“Lặn lội sang xứ người không chỉ để tìm mộ của Hồ Quý Ly, mà còn tìm nơi chôn cất của các danh nhân Việt Nam từng sống tha phương rồi chết bên ấy nữa…”.
>> Hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly – Đến vùng mộ táng Lão Hổ Sơn
>> Hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly – Từ những giấc mộng lạ
Đó là câu nói chân tình của nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật. Ông ghi lại qua bản thảo cuốn hồi ức chưa xuất bản về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly ở Trung Quốc, lúc đến vùng Lão Hổ Sơn – như sau: “Tôi bảo cô Thu Vân (sinh viên người Việt họ Hồ, du học tại Bắc Kinh) rằng cháu hãy lấy nắm nhang đem theo đốt lên để dễ liên lạc với người đã khuất nơi đây. Cô Thu Vân nghe lời đốt mấy nén hương, làn khói bốc lên nhưng không bay đi mà cứ lượn quanh tôi và cô Thu Vân. Tôi thấy đây là điềm lạ ở xứ người… Núi Lão Hổ Sơn gần sát bờ sông Trường Giang, cảnh vật âm u huyền ảo với những bãi tha ma vô chủ, cách nơi đô hội chỉ 20 km, song hiện nay nó cũng bị quy hoạch của thành phố Nam Kinh đẽo gọt dần – nên “mất đất” nhiều, số diện tích còn lại ngày càng khiêm tốn, trong đó có ba quả đồi không lớn lắm và ba quả đồi ấy là một bãi tha ma đủ loại mộ, phần nhiều không bia ký và tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người lui tới rẫy cỏ, chăm sóc, khói hương.
Chỉ có thấy mây vờn trên các đỉnh đồi, với một vài loài chim bay tới bay lui trên không gian vắng lạnh mà thôi… Trở lại việc chính là tìm mộ Hồ Quý Ly có nằm ở đó hay không. Nếu căn cứ vào Minh sử thì cha con, thân thích của vua Hồ Quý Ly và các bộ tướng bị bắt, một phần tù binh ấy bị đưa ra công trường để tiếp tục xây thành Giang Tô, một số khác bị đưa khỏi Nam Kinh, tách ra để đi xây thành Bắc Kinh. Vì lúc bấy giờ, thành Bắc Kinh cũng đang được xây dựng, sau này trở thành kinh đô nhà Minh. Một bằng chứng hiển nhiên của số người Việt bị bắt đi xây thành Bắc Kinh là sự có mặt của một nhân vật nổi tiếng được sử sách Trung Quốc nhắc đến là kiến trúc sư Nguyễn An”.
Về bằng chứng trên, gần đây trong tài liệu in thành sách với tựa Kiều bào và quê hương, dày hơn 970 trang, của nhiều tác giả (NXB Trẻ, 2006), do Trần Bạch Đằng, Dương Đình Thảo, Nguyễn Ngọc Hà cố vấn biên soạn, chủ biên là Viện sĩ – tiến sĩ Nguyễn Chơn Trung và TS Quách Thu Nguyệt, đã chuyển tải những thông tin liên quan đến Hồ Quý Ly và những người bị bắt đày sang Trung Quốc trong đó có Nguyễn An (1381-1458) – người đã thiết kế và xây dựng Thiên An Môn ở Bắc Kinh thời nhà Minh, tóm lược dưới đây:
Các bộ chính sử nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều không đề cập đến sự kiện này. Gần đây, một soạn giả Trung Quốc là ông Trần Ngọc Long trong cuốn biên khảo nhan đề Hán văn hóa luận cương – Kiêm thuật Trung – Triều, Trung – Nhật, Trung – Việt văn hóa giao lưu (Luận cương về văn hóa Hán – Giao lưu văn hóa Trung Hoa – Triều Tiên, Trung Hoa – Nhật Bản, Trung Hoa – Việt Nam) do nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh ấn hành năm 1993, cho biết Nguyễn An chẳng những thiết kế kinh thành Bắc Kinh mà còn xây Tử cấm thành nữa, cụ thể: “Thành Bắc Kinh chín cửa, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ, đến việc lấp, chắn các đoạn sông ở Hàn Dương thôn, mọi việc đều do một mình Nguyễn An trù tính cả”. Trần Ngọc Long còn dẫn bài viết của Việt Nhân nhan đề: “Nhà kiến trúc thiên tài Nguyễn An từng tham gia xây dựng Đại Bắc Kinh thời Minh” để cho biết công trình trọng điểm thời bấy giờ là xây Tử cấm thành và Hoàng thành. Tử cấm thành do Nguyễn An thiết kế, nam bắc dài 960m, đông tây rộng 760m, trong đó có ba điện phía trước là Hoàng cực điện, Trung cực điện, Kiến cực điện; và ba điện phía sau là Càn thành, Giao thái, Khôn ninh. Chỉ trong vòng 4 năm ngắn ngủi, Nguyễn An tiên sinh đã sơ bộ hoàn thành hạng mục công trình phức tạp này”. Năm 1440, vua Minh Anh Tông hạ lệnh xây dựng lại ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn thân (tức Kiến Cực điện), Nguyễn An vẫn là người thiết kế.
Cuối cùng, tác giả (Trần Ngọc Long) viết: “Nguyễn An thực là kỳ tài hiếm có trong lịch sử kiến trúc phương Đông”. Sử sách còn ngợi khen: “giơ tay chỉ vạch là hình hiện lộ, thế dựng lập… Mắt tinh tường, ý doanh tạo đều khớp với quy chế. Khéo suy xét, tính toán như thần, người đời thán phục”. Nguyễn An là nhân tài nước Việt ta sinh vào cuối đời Trần, không rõ quê quán. Theo sử sách Trung Quốc, Nguyễn An là người bẩm sinh thanh cao, cứng cỏi, giỏi mưu tính, nhất là về việc xây dựng. Lúc Nguyễn An làm kiến trúc sư, tổng thiết kế kinh thành Bắc Kinh, ông chỉ mới xấp xỉ ba mươi tuổi. Để kết luận, tác giả Hán văn hóa luận cương viết: “Ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng cố cung trang nghiêm hùng vĩ, tự nhiên tưởng nhớ tới nhà kiến trúc thiên tài của Việt Nam”.
Ngoài Nguyễn An, còn có 130 người thợ cả giỏi kiến trúc mỹ thuật, bị bắt đưa sang Nam Kinh. Họ cùng với gia quyến nhiều đời bị đày sang Trung Quốc, sống tha phương ở đó, chết ở đó và chôn ở đó. Để tìm hiểu sâu hơn, ông Đỗ Đình Truật đến tiếp xúc với các cụ già họ Hồ sống tại thôn Kim Lăng dưới vùng đồi Lão Hổ Sơn và ghi lại qua bản thảo cuốn hồi ức của ông, rằng: “Các cụ bô lão ở đây nói xưa kia theo ông bà nhiều đời truyền miệng quả là có tù binh Việt bị đày sang và chính cái gò hoang tha ma ấy là nơi mộ táng của họ. Các cụ còn chỉ chỗ này xưa kia có một ngôi mộ lớn hơn hết, không biết của ai, chỉ biết dân làng họ Hồ trong vùng thường đến đó cúng tế linh đình – nguyện ước gì được nấy – linh ứng lắm. Nhưng từ ngày quân Nhật tràn qua Trung Quốc đã biến nơi này thành pháo đài, nên cái lăng đó bị san bằng… không còn dấu tích. Song nếu được khai quật, đào sâu dưới lòng đất kia biết đâu có thể tìm thấy những chứng cứ bất ngờ về mộ Hồ Quý Ly và các bộ tướng vùi chôn dưới bãi tha ma nhiều đời nhiều kiếp nọ?”.
Không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi của Hồ Quý Ly được ghi vào từ điển bách khoa nước ngoài như một nhà cải cách lớn của Việt Nam. Tiến sĩ sử học Nga G.M.Maxlov viết: “Trước chúng ta, Hồ Quý Ly đã thể hiện như một nhà cải cách, một người yêu nước, một chiến sĩ chống chủ nghĩa bá quyền. Ông xứng đáng có vị trí đặc biệt trong lịch sử”. Hồ Quý Ly, tất nhiên có nhiều hạn chế trong điều kiện lịch sử của đất nước và những hạn chế của cá nhân ông, nhưng ông đã để lại những dấu ấn. Điều ông làm được, điều ông chưa làm được, điều đúng, điều sai, đều là những bài học lớn đối với đời sau…
Hồ Sĩ Giàng
(Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam)
Giao Hưởng
Nguồn: Thanh Niên