BTKUXH – Chúng tôi đến thăm Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Nguyễn Văn Thương sau cơn mưa vội vào chiều Chủ nhật trung tuần tháng 10 trên đất Sài Gòn. Trời về chiều, mọi người lại hối hả, chen lấn nhau trong giờ kẹt xe cao điểm, còn ông thì có vẻ bình thản, an nhàn trong căn biệt thư khá yên tĩnh nằm trên góc đường Bình Lợi (Nơ Trang Long nối dài), Quận Bình Thạnh, Tp.HCM.
Ông sinh năm 1938, quê cha ông ở Trảng Bàng, Tây Ninh, quê mẹ ở Bến Tre. Vì vâỵ ông có chất giọng miền Nam dễ nghe, chân chất và tạo cho người nghe một niềm cảm mến ngay từ lần đầu gặp mặt.
Thấy tôi ngắm nghía các tiện nghi trong ngôi nhà, ông vui vẻ hỏi tôi và tự trả lời ngay: “thấy nhà của thương binh mà ác chiến không? Nhà của nhà nước cấp đó, trước ở bên đường CMT8, tổng cục II cấp cho 80 triệu mua, sau khó khăn quá mới chuyển dzề đây”. Có lẽ ông là một trong những người được nhà nước có chính sách đền ơn đáp nghĩa đặc biệt. Nhìn cơ ngơi này có thể nhiều người cho đó là sự “đền ơn đáp nghĩa” tương xứng, nhưng khi nhìn vào thân thể của ông thì tôi lại thấy chẳng có gì bù bắp cho những hi sinh mất mát của ông vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Người sáu lần bị CIA Mỹ cưa chân, hàng chục lần bị tra tấn dã man, đến ngày thống nhất đất nước, thân thể ông đã không còn nguyên vẹn. Thế nhưng ông vẫn sống với một niềm tin sắt đá vào lý tưởng mà mình đã theo. Ngay cả kẻ thù cũng phải thốt lên rằng: “Ôi, một sinh vật bằng thép! Chúng tôi thua ông.”
Cha ông vốn là một chiến sĩ quân báo, bị địch bắt và hy sinh trong nhà tù ở Tây Ninh năm 1959. Má ông cũng là giao liên hoạt động trong Hội Phụ nữ cứu quốc. Bà bị địch bắt, tra tấn, đày ra chuồng cọp Côn Đảo rồi hy sinh vào năm 1947. Cha mẹ hy sinh hết, gia tài lớn nhất họ để lại cho ông là dòng máu cách mạng, nó vẫn luôn chảy lúc âm ỉ, lúc mãnh liệt trong người để ông tiếp tục con đường cách mạng. Ông vào quân ngũ, làm công an, rồi làm giao liên nhưng là tình báo giao liên… một công việc đòi hỏi nhiều tố chất thông minh, gan dạ, lanh lẹ, nhạy bén…
Ngày 10/2/1969, một mình chiến đấu đến viên đạn cuối cùng giữa vòng vây địch khi bị chúng phát hiện trên đường chuyển tài liệu mật từ Sài Gòn về căn cứ, người giao liên tình báo Nguyễn Văn Thương, quê quán Tây Ninh, đã bị bắt. Với những điều đã biết về ông, kẻ thù bắt đầu dùng đủ mọi chiến thuật để moi bí mật từ miệng ông. Bắt đầu là một đợt tra tấn bằng cây sắt săm hầm, lưỡi lê vào bắp chân, nhưng từ bọn tình báo đến bọn chiêu hồi đã biết rõ họ tên và hoạt động của ông, đều bất lực vì ông phủ nhận tất cả.
Màn “tra tấn” thứ hai bắt đầu lần này không có sắt thép, không có máu chảy, đau đớn mà là một màn kịch “nhung lụa” êm ái. Ông được đưa vào ngôi biệt thự sang trọng với đầy đủ tiện nghi. Ở đấy có sẵn một “bóng hồng” xinh đẹp, dịu dàng, mang dáng dấp một thiếu nữ con nhà lành, có học thức chờ đón và chăm sóc ông. Kèm theo mỹ nhân là 100.000 USD và quyền sở hữu cả ngôi biệt thự với điều kiện duy nhất là thừa nhận ông chính là Nguyễn Văn Thương.
Ông kể: “Bây giờ nghĩ lại, 100 ngày bị bọn chúng cưa chân chết đi sống lại nhiều lần cũng không đáng sợ bằng 100 ngày tôi sống trong ngôi biệt thự ấy. Khi học làm tình báo, tôi được dạy là bọn nữ tâm lý chiến thường dùng nhan sắc, mặc quần áo hở hang, khêu gợi xác thịt… nhưng cô gái mà tôi gặp lại đoan trang, thùy mị lắm. Suốt 100 ngày cô chỉ có những lời êm ái hỏi thăm gia cảnh, chăm sóc sức khỏe và những tâm tình tưởng chừng như được rút ra từ trong sâu thẳm tâm hồn cô, rồi những lời nói về tình ái, những động tác thân xác đúng “bài” tình yêu lãng mạn, đánh vào tâm lý và bản năng con người.
Nhưng bằng sự nhạy bén, khả năng phán đoán, cảnh giác cao độ và lòng quyết tâm bảo vệ bí mật tổ chức đến cùng đã giúp ông vượt qua tất cả hàng loạt “bẫy” khá tinh vi do cô gái giăng ra từ mẩu giấy nhỏ được trộn vào bát cơm, tấm lịch treo ngược trên tường, ảnh phong cảnh… để nhử ông phải lộ ra rằng mình biết đọc biết viết… đã bị thất bại.
Sáu lần bị cưa chân
Và 100 ngày sau đó, địch đã cho ông nếm trải gần như tất cả những nỗi đau đớn khủng khiếp nhất, vừa đánh đập vừa cưa chân ông. Mỗi lần, chúng cưa một đoạn. Mỗi lần chuẩn bị cưa, chúng lại áp dụng nhiều thủ đoạn tra tấn tâm lý kéo dài sự căng thẳng, kéo dài sự đau đớn. Hết đánh lại cưa, cưa xong lại chữa trị cho lành, gần lành chúng lại cưa. Có đợt, cưa xong chúng lại đưa ông ra làm vật thí nghiệm cho bác sĩ Mỹ thực tập. Cứ như thế, chúng cưa nhiều lần, cưa nhiều đoạn và cho đến lần thứ sáu thì chiến sĩ tình báo Nguyễn Văn Thương đã vĩnh viễn mất đi đôi chân.
Cái cảm giác ấy, sau này ông kể lại, nó hụt hẫng ghê gớm lắm nhưng thâm tâm ông có thể tự hào là mình đã giữ vững ý chí chiến đấu. Ông lý giải, sở dĩ lúc ấy ông vượt qua được những đau đớn chính là nhờ sức mạnh của Đảng truyền cho. Lúc ông ở tù, khi bắt được liên lạc với tổ chức, trong lá thư đầu tiên ông viết gửi về cứ cho người bí thư chi bộ là lời dặn dò tha thiết: “Anh nhớ đóng giùm lệ phí Đảng cho tôi”. Vì thế, ông luôn tự hào trong hơn 400 ngày bị giam giữ, ông vẫn là người đóng lệ phí Đảng đầy đủ.
Ngoài tình yêu thủy chung với Đảng, với đồng đội, một trong những động lực nữa có thể “nâng đỡ” tinh thần, giúp ông giữ vững ý chí chiến đấu chính là tấm gương hi sinh của các má, các chị đã từng bảo vệ cho ông không kể đến tính mạng.
Có lần, ông núp dưới hầm khi bọn địch đang lùng sục, bọn chúng ép cô gái chủ nhà, là cơ sở của ta phải chỉ hầm. Chúng lấy kẹp sắt kẹp vào đùi non của cô đến tóe máu, cô gái vẫn nhất quyết không khai. Nhiều lần khác, vì che giấu ông mà nhiều má đã bị chúng bắn chết tại chỗ, ngay sát nắp hầm… Ông luôn nghĩ các má, các chị đã chấp nhận cái chết vì cách mạng, vì ông thì nỗi đau đớn, mất mát thân xác có xá gì.
200 ngày bị chiêu dụ bằng đôla, gái đẹp, nhà sang, bị tra tấn, bị cưa mất đôi chân… đó mới chỉ là một khoảng thời gian ngắn mà chiến sĩ tình báo Nguyễn Văn Thương phải chịu đựng. Tiếp theo đó là những chuỗi ngày ở tù, những giây phút cận kề với cái chết… Ông bị chúng đưa đến giam giữ tại trại giam Hố Nai.
Trong tù, ông vẫn tiếp tục hoạt động, đấu tranh, viết truyền đơn nên bị chúng liệt vào dạng tù cấm cố, nhốt vào thùng sắt 3 tháng, nơi mà người tù bình thường khó chịu đựng nổi qua 15 ngày, rồi bị đày ra Côn Đảo… Thế nhưng, ông vẫn sống.
Đến bây giờ, điều đáng mừng là dù tuổi đã cao, ông vẫn minh mẫn, nói năng dí dỏm, “đi lại” trên chiếc xe lăn một cách nhanh nhẹn khó ngờ. Ở các cuộc nói chuyện truyền thống, ông luôn truyền cho người nghe ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, tiếp cho lớp trẻ niềm tin vào lý tưởng, vào tương lai, để họ vững vàng thêm trong cuộc sống